Bộ sưu tập súng bộ binh do Việt Nam sản xuất từ năm 1945 đến 1975 bao gồm các loại súng do Quân giới Việt Nam và một số xưởng quân giới của các tỉnh, ty công an sản xuất. Ngoài ra, còn có một số loại súng do cá nhân sản xuất trên cơ sở sửa chữa, cải tiến từ các mẫu súng của nước ngoài hoặc tự sáng chế phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Bộ sưu tập gồm 457 hiện vật, trong đó có 119 hiện vật gốc, 338 hiện vật dự trữ, được chia thành 13 loại súng khác nhau. Trong mỗi loại có nhiều kiểu: súng ngắn có 21 khẩu, súng trường có 2 khẩu, súng kíp có 8 khẩu, súng săn có 1 khẩu, súng tiểu liên có 15 khẩu, súng trung liên có 6 khẩu, súng Bazôka có 8 khẩu, súng SSAT có 2 khẩu, súng SKZ, SSB có 8 khẩu, súng ngựa trời có 6 khẩu, súng cối có 20 khẩu, súng B40 có 18 khẩu, súng B41 có 4 khẩu.
Sau đây là một số loại súng đặc trưng:
1. Súng kíp, du kích Yên Thế, Bắc Giang sử dụng đánh Nhật, năm 1945.
Súng kíp là loại súng nòng trơn, chế tạo theo phương pháp thủ công, đồng bào miền núi thường dùng chiến đấu và săn bắn. Súng kíp có nhiều cỡ khác nhau tuỳ thuộc vào vật liệu làm nòng súng, không có đạn chế sẵn. Khi bắn, thuốc súng và đạn (đúc từ gang, chì, đồng...) được nạp từng phát từ miệng nòng, phát hoả bằng cơ cấu va đập vào hạt nổ lắp rời ở đuôi nòng. Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 và thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, súng kíp được dùng làm vũ khí chiến đấu, tự vệ.
Đội du kích Yên Thế - Bắc Giang sử dụng loại súng này để đánh Nhật, năm 1945-1946.
2. Súng tự tạo, du kích dân tộc HMông - Tây Bắc sử dụng chiến đấu chống Pháp (1946-1954).
Súng do Đội du kích người dân tộc HMông, khu vực Tây Bắc tự sản xuất năm 1946, dùng trang bị cho du kích đội chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp ( 1946-1954).
3. Súng kíp, Đội Cứu Quốc quân sử dụng đánh đồn Tràng Xá, Đình Cả - Thái Nguyên, tháng 3/1945.
Đội Cứu quốc quân thu được của địch trong trận Khuôn Xám - Võ Nhai - Thái Nguyên. Sau đó Đội đã sử dụng đánh đồn Tràng Xá - Đình Cả - Thái Nguyên, đánh đồn Mẹt - Bắc Giang, tháng 3/1945.
4. Súng ngựa trời nhân dân Mỏ Cày dùng bắn chết 7 tên địch năm 1960.
Đây là loại vũ khí thô sơ có hình con bọ ngựa, dùng phóng các mảnh kim loại, thuỷ tinh, đá vụn để sát thương sinh lực địch. Cấu tạo gồm: Nòng bằng kim loại (ống nước, ống tôn) đường kính 35-70 mm, dài 0,4-0,8 mét, đáy nòng bịt kín (hàn hay đập dẹt) đặt trên hai chân chống, gần đáy nòng khoan một lỗ để lắp cơ cấu cò hay bộ phận phát hoả đơn giản. Trong nòng nhồi thuốc phóng (thường dùng thuốc đen), tấm đệm bằng gỗ và các mảnh gang, sắt, mảnh sành, thuỷ tinh, đá, bi xe đạp...có thể ngâm nọc rắn độc, nước tiểu). Cự ly phóng mảnh tới 150 mét, sát thương sinh lực địch khoảng cách tới 100 mét. Súng ngựa trời sản xuất tháng 1 năm 1960, sử dụng ở ba xã Đình Thuỷ, Bình Khánh, Phước Hiệp và một số trận chống càn ở Bến Tre. Súng được dùng rộng rãi ở Nam Bộ đầu những năm 60 của thế kỷ XX. Theo Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam - NXBQĐND-2004.
5. Súng Badôca (Bazooka), Việt Nam sản xuất, sử dụng diệt xe tăng Pháp ở Hà Đông, năm 1947.
Súng Badôca là loại súng phóng lựu phản lực chống tăng. Mẫu đầu tiên của súng Badôca là loại súng xách tay cỡ 60mm ( bắn đạn lõm trên cỡ) của Mỹ sản xuất năm 1942.
Và đến đầu năm 1946, đồng chí Hoàng Phúc và Xưởng vũ khí Giang Tiên đã sản xuất ra loại súng Badôca của Việt Nam. Sau đó, đồng chí Hoàng Phúc cùng kỹ sư Trần Đại Nghĩa thiết kế hoàn chỉnh vào cuối năm 1946, tổ chức bắn thử tháng 2/1947. Súng được sử dụng lần đầu tiên diệt xe tăng Pháp ở gần chùa Trầm (hướng Hà Nội - Hà Đông), đầu năm 1947, sử dụng phổ biến trong chiến dịch Việt Bắc năm 1947 và trong kháng chiến chống Pháp.
Nguồn từ Bảo tàng lịch sử Quân đội Việt Nam